Tỉnh Bến Tre đang triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng thí điểm vùng sản xuất tập trung trong giai đoạn 2021-2023 cho các loại cây trồng và động vật chủ lực. Hiện nay, đã có mô hình thí điểm thành công trên các loại cây như dừa, sầu riêng và bưởi da xanh.
Nhằm phát huy tiềm năng của ngành nông nghiệp, Bến Tre đã tập trung vào việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn, đồng thời tạo ra môi trường và hệ sinh thái số nông nghiệp là nền tảng cho Chuyển đổi Số toàn diện. Đây được coi là yếu tố quan trọng để phát triển nông nghiệp địa phương theo hướng bền vững và hiện đại.
Nói không với sử dụng hóa chất, ông Vương Thành Công đã áp dụng phương pháp này trong mảnh vườn khoảng 1ha của mình ở xã An Hiệp, huyện Châu Thành. Thay vì sử dụng thuốc hóa học, ông đã sử dụng bầy kiến vàng để tiêu diệt sâu bệnh trên cây. Ngoài ra, ông cũng quan tâm đến sức khỏe của đất bằng cách loại bỏ hoàn toàn phân bón vô cơ và thay vào đó là việc ủ phân từ các phụ phẩm nông nghiệp để dùng trong sản xuất. Điều này không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường.
Ông Công cho biết rằng việc sử dụng phân hữu cơ sẽ giúp đất tươi xốp, bộ rễ cây khỏe mạnh và hấp thụ chất dinh dưỡng tốt. Khi sử dụng phân hữu cơ, tuổi thọ của cây trồng sẽ kéo dài, trái cây có chất lượng tốt và ngon miệng, đồng thời giảm chi phí so với việc sử dụng phân vô cơ và không gây ra hiện tượng bạo phát hay bạo tàn.
Theo ông Công, thay vì tập trung vào sản lượng như trước đây, hiện nay nông dân đã có ý thức hơn trong việc thay đổi phương thức sản xuất theo hướng chất lượng nông sản, đặc biệt là sản xuất sạch và nông nghiệp xanh. Điều này không chỉ đảm bảo an toàn cho người sản xuất mà còn bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường khó tính.
Tại vườn dừa hơn 2ha của ông Phạm Văn Hà ở xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú, ông chia sẻ rằng trước đây gia đình ông đã phải bán dừa với giá thấp do sự quyết định và thu mua không ổn định của thương lái. Tuy nhiên, khi tham gia vào Hợp tác xã Nông nghiệp Thới Thạnh và sản xuất dừa theo hướng hữu cơ, liên kết với doanh nghiệp để bảo đảm đầu ra, ông Hà đã có cơ hội thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Điều quan trọng là nông dân cần giữ chữ tín, tuân thủ quy trình sản xuất và không sử dụng hóa chất trong việc phòng trừ sâu bệnh trên cây dừa. Theo ông Hà, việc canh tác dừa theo phương pháp hữu cơ mang lại hiệu quả rất cao, với sản lượng tăng thêm 20-30%. Trên diện tích 2ha, ông đã trồng hơn 400 cây dừa và thu hoạch được từ 2.500-3.000 trái mỗi tháng. Ngoài ra, ông còn sử dụng phân chuồng từ các hộ nuôi dê, bò trong xã để tự ủ phân hữu cơ cho cây dừa, giúp tiết kiệm 50% chi phí so với việc sử dụng phân bón hóa học. Với giá trung bình 80.000 đồng/chục, ông Hà có thu nhập hàng năm khoảng 120-150 triệu đồng từ việc trồng dừa hữu cơ, đảm bảo cuộc sống của người dân trồng dừa.
Theo số liệu của ngành Nông nghiệp, tỉnh Bến Tre hiện có tổng diện tích liên kết chuỗi giá trị đối với cây dừa là 23.747ha, chiếm 30% tổng diện tích dừa trên toàn tỉnh. Tổng diện tích dừa được sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, GAP và tương đương là 24.640ha; trong đó, diện tích dừa sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ là 18.525ha. Hiện có 17 mã số vùng trồng nội địa với tổng diện tích 808,51ha và 43 mã số vùng trồng xuất khẩu (93 mã) với diện tích 705,51ha. Có 6 doanh nghiệp được cấp mã số cơ sở đóng gói để xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc, Thái Lan…
Tỉnh đã triển khai xây dựng thí điểm vùng sản xuất tập trung giai đoạn 2021-2023 cho các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực, và hiện đã thành công trong việc xây dựng mô hình thí điểm trên dừa, sầu riêng và bưởi da xanh. Đã có 6 vùng sản xuất dừa tập trung với tổng diện tích 2.202,69ha, trong đó có 5 vùng sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ với diện tích 2.162,69ha và 1 vùng sản xuất dừa uống nước với diện tích 40ha. Đặc biệt, năm 2023 đã có tín hiệu tích cực khi Mỹ và Trung Quốc cho phép nhập khẩu trái dừa tươi.
Tỉnh cũng đã xây dựng mô hình thí điểm vùng sản xuất tập trung sầu riêng tại xã Tân Phú, Châu Thành với tổng diện tích chứng nhận VietGAP là 76,5ha, trong đó có 55,7ha liên kết giữa Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Phú với 2 công ty (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Green Powers và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hoàn Châu-Á Châu).
Tại Châu Thành, đã có mô hình thí điểm vùng sản xuất bưởi da xanh với diện tích 60,8ha (kế hoạch là 50ha). Đã hỗ trợ xây dựng chứng nhận VietGAP đạt 100% và thiết lập liên kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên xuất nhập khẩu Trái cây Hương Miền Tây, dự kiến sản lượng liên kết tiêu thụ khoảng 500 tấn/năm.
Việc phát triển nông nghiệp số..
Bằng cách nuôi tôm theo hướng công nghệ cao, nông dân Lê Văn Sấm đã trở thành một ví dụ điển hình về thành công trong việc gắn bó và làm giàu. Ông Sấm sống tại xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú và là một trong những người đầu tiên ở tỉnh Bến Tre thành công trong việc nuôi tôm theo hướng công nghệ cao. Với diện tích nuôi tôm công nghệ cao lên đến 40ha, ông đã thu hoạch được trung bình từ 70-90 tấn/ha mỗi năm, mang lại thu nhập khoảng 30-50 tỷ đồng.
Theo ông Sấm, ông đã phải trải qua nhiều khó khăn trong việc nuôi tôm biển trong suốt hơn 20 năm. Có lúc ông phải bán ao nuôi để trả nợ do tôm bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, vào năm 2013, ông đã quyết định đầu tư thử nghiệm mô hình nuôi tôm công nghệ cao, yêu cầu nông dân phải thay đổi tư duy và cách làm so với cách nuôi truyền thống trước đây. Đặc biệt, việc đầu tư trang thiết bị cho ao nuôi và sử dụng bạt để che phủ hoàn toàn ao nuôi là rất quan trọng. Hệ thống xử lý chất thải trong ao và hệ thống tạo oxy cũng phải được đầu tư một cách cẩn thận.
Một trong những ưu điểm của mô hình mới là có thể kiểm soát được môi trường nuôi, quản lý dịch bệnh và đạt năng suất thu hoạch cao hơn nhiều so với cách nuôi truyền thống. Tỷ lệ thành công của mô hình này lên đến 90%, và có thể nuôi 2-3 vụ trong một năm. Tuy nhiên, cần phải chia tôm theo từng giai đoạn nuôi để dễ dàng kiểm soát dịch bệnh, nguồn thức ăn và môi trường nước, giúp tôm phát triển nhanh và tránh bị bệnh. Hiện nay, hầu hết các nông dân nuôi tôm đều áp dụng mô hình chia tôm thành 2-3 giai đoạn như ươm giống, tôm nhỏ và tôm lớn để đạt hiệu quả cao. Ông Sấm cũng lưu ý điều này.
Đến cuối năm, tỉnh Bến Tre đã phát triển hơn 3.110ha ao nuôi tôm công nghệ cao. Theo Nghị quyết số 04-NQ/TU về phát triển Bến Tre theo hướng Đông giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến 2030, một trong những mục tiêu của tỉnh là phát triển 4.000ha ao nuôi tôm biển áp dụng công nghệ cao vào năm 2025 và 5.000ha vào năm 2030.
Để đạt được mục tiêu này, tỉnh sẽ xem xét lại kế hoạch và xây dựng các vùng nuôi theo hướng công nghệ cao. Đồng thời, sẽ tập trung phát triển mạnh mẽ việc nuôi tôm sú và tôm chân trắng có thị trường tiềm năng. Tỉnh cũng sẽ nhân rộng và phát triển mô hình nuôi tôm theo công nghệ cao, đảm bảo an toàn sinh học và chia tôm thành 2 giai đoạn để tăng năng suất, sản lượng và phát triển bền vững. Theo thông tin từ Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre, đơn vị đang áp dụng nền tảng Map4D GIS Platform để số hóa và quản lý khu nuôi tôm công nghệ cao (4.000ha) tại tỉnh Bến Tre. Điều này nhằm xây dựng phần mềm số hóa và quản lý 1.900ha khu nuôi tôm công nghệ cao, với mục tiêu mở rộng phạm vi số hóa và quản lý 4.000ha theo kế hoạch giai đoạn 2021-2025, cũng như đề xuất giải pháp phát triển khu nuôi tôm chuyên canh công nghệ cao trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra, tỉnh cũng đã hợp tác với các ngành chuyên môn và địa phương để xây dựng bản đồ chuyên đề nông nghiệp trồng trọt tại Bến Tre. Điều này cho phép cập nhật thông tin lên bản đồ từ các dữ liệu đã được chuẩn hóa bằng GIS và phần mềm quản lý cây trồng tích hợp trên bản đồ số. Ngoài ra, công nghệ Blockchain cũng được áp dụng để quản lý và phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị, kết nối quá trình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm đặc sản của địa phương.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã nghiên cứu và xây dựng mô hình Chuyển đổi Số trong quản lý Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) trên địa bàn. Điều này nhằm áp dụng công nghệ số để quản lý chương trình OCOP, từ đó nâng cao giá trị và thương hiệu của các sản phẩm OCOP, góp phần thực hiện thành công chương trình Chuyển đổi Số trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bến Tre – ông Đoàn Văn Đảnh cho biết rằng việc Chuyển đổi Số trong nông nghiệp là một bước tiến có nhiều cơ hội và cũng đầy thách thức. Tuy nhiên, nếu chủ động thực hiện sớm, tỉnh sẽ có cơ hội để tận dụng và tạo động lực mới cho nông nghiệp và nông thôn phát triển hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh đó, Bến Tre cũng đã triển khai hệ thống giám sát và theo dõi thông minh cho sâu bệnh hại trên cây ăn trái, tích hợp với camera điện toán biên, hệ thống quan trắc chất lượng nước thông minh và hệ thống bơm nước thông minh tại vùng thí điểm hợp tác xã bưởi da xanh Giồng Trôm.
Ngoài ra, tỉnh cũng đã áp dụng mô hình ứng dụng công nghệ 4.0 và thiết bị thông minh vào quản lý, canh tác và truy xuất nguồn gốc chuỗi giá trị bưởi da xanh Bến Tre, cũng như quản lý sản phẩm nuôi cấy mô trong phòng nuôi cấy tế bào thực vật. Các công nghệ khác như nhật ký điện tử, tưới tự động, phun thuốc tự động cho cây trồng, máy cho tôm ăn tự động và tế bào quang điện (Solar cells) cũng được áp dụng đối với thủy sản. Một số trang trại chăn nuôi cũng đã đầu tư công nghệ chuồng lạnh, điều chỉnh ánh sáng tự động, nhiệt độ và độ ẩm.
Đặc biệt, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh đã đầu tư lắp đặt 14 trạm quan trắc tự động thông minh để đo đạc 9-14 chỉ số môi trường nước, phục vụ cho việc nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Ba Tri và Thạnh Phú. Tất cả các dữ liệu thu thập được sẽ được chia sẻ cho các đơn vị và nông dân trong khu vực để có thể theo dõi, phòng ngừa và dự báo trong quá trình sản xuất.
Ngoài ra, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh cũng đã phát triển nền tảng dữ liệu số cho ngành nông nghiệp và nền tảng truy xuất nguồn gốc, với sự sử dụng của 23 phần mềm/cơ sở dữ liệu.